Tại sao chúng ta phải học truyền tin?
Truyền tin là một trong những kỹ năng giúp ích chúng ta rất nhiều trong
sinh hoạt kỹ năng. Nói đến việc học nó thì không phải một sớm một chiều
là có thể thành công ngay mà nó đòi hỏi chúng ta phải cần cù siêng năng.
Thật thú vị biết bao khi ta có thể dùng
môn này để nói chuyện với bạn mình bên kia đường mà người khác không
hiểu được nội dung. Truyền tin liên lạc có giá trị rất lớn trong trường
hợp liên lạc giữa bạn bè với nhau trong miền hoang vu, hoặc ở hai bờ
sông lớn, hay địa hình hiểm trở và thông tin cứu hộ. Vậy thì ta thử
quan tâm xem lịch sử truyền tin được phát triển như thế nào?
Từ thời thượng cổ, loài người đã biết
dùng những tiếng hú, tiếng kêu riêng để gọi nhau mà chỉ người cùng bộ
tộc mới biết được. Rồi đến những thông tin đầu tiên là những hình vẽ
trên da thú hay trên những vách hang động mà chúng ta biết được qua báo
đài.
Thời Hy Lạp cổ, trong cuộc chiến ở làng
Marathon có một chiến binh đã dũng cảm băng rừng lội suối, bất chấp mọi
gian khổ để chạy về báo tin thắng trận, vì quá kiệt sức với đoạn đường
tương đương 42,195 km, anh ta về thành Athene chỉ kịp nói được hai chữ
“Chiến thắng” thì tắt thở. Đó được xem như là chiến công vẻ vang nhất
của ngành truyền tin thời bấy giờ. Sau này để ghi nhớ chiến công này
người ta đã tổ chức cuộc thi chạy việt dã cùng với cự ly như vậy.
Lần lượt theo nhu cầu mà con người nghĩ
ra cách truyền tin nhanh chóng và xa hơn. Các bộ lạc da đỏ Châu Mỹ có
cách liên lạc với nhau bằng khói, cũng như người thổ dân Phi Châu dùng
nhịp trống ngắn và dài để báo tin.
Ngoài ra người ta còn sử dụng ngựa và
bồ câu liên lạc. Ngay từ cuối thế kỷ XII, Thành Cát Tư Hãn có một đội
quân liên lạc bằng kỵ binh mang tên “Mã Khoái”, đã góp phần lớn vào
chiến thắng của quân Mông Cổ lúc bấy giờ. Vào thời kỳ này hệ thống giao
thông liên lạc hết sức khó khăn nhưng Thành Cát Tư Hãn đã tổ chức một
hệ thống trạm dọc theo các trục lô chính, sử dụng các kỵ sĩ cởi thiên
lý mã suốt đêm ngày, đảm bảo liên lạc xuyên suốt mà các đế quốc khác
chưa thực hiện được. Cũng với hình thức tương tự mà mãi sau này ở miền
viễn Tây nước Mỹ người ta mới thành lập một công ty mang tên “Ngựa con
tốc hành” để chuyển tải thư tín bằng người từ bang Sacramanto đến bang
St.Joseph trong vòng 10 ngày đó là kỷ lục truyền tin lúc bấy giờ. Ở
Việt Nam, Trần Nguyên Hãn trong thời kỳ chống giặc Minh đã sử dụng bồ
câu liên lạc góp phần vào chiến thắng chống ngoại xâm của dân ta.
Tại Anh, tướng Jonh Smith là người đầu
tiên phát minh lối dùng lửa truyền tin trong quân đội. Năm 1792 chính
phủ Pháp có thể chuyển những thông điệp đi khắp Châu Âu với vận tốc
1.500 dặm một giờ. Từ Pari, hoàng đế Pháp có thể truyền các chỉ dụ đến
các vị tướng của ông bên bờ sông Rhine cách đó 150 dặm trong vòng 6
phút! Bằng cách nào? Đó là hệ thống tín hiệu do Claude Chappe phát minh
năm 1792. Người ta xây dựng những tháp cao khắp nước Pháp và Châu Âu,
mỗi tháp mang trên đỉnh hai cây cờ khổng lồ mà các tháp kia có thể nhìn
thấy qua kính viễn vọng từ khoảng cách 10 dặm. Người điểu khiển hai
ngọn cờ đánh vần từng chữ cái trong thông điệp bằng cách giương cờ ở
những vị trí khác nhau. Ngọn tháp cao được gọi là Semaphore. Đến nay,
cột tín hiệu và các mã Semaphore vẫn còn được sử dụng trong hải quân và
lục quân của nhiều nước trên thế giới.
Những phương tiện thông tin trên dù sao
cũng xem là chậm và đôi khi còn sai lạc, nếu gặp luồn gió mạnh thổi
ngược chiều, những ngày trời xấu, mưa, bão. Do đó để theo kịp tốc độ
phát triển về mọi mặt của đời sống con người, ngày càng có những phát
minh làm cho việc truyền tin hiệu quả hơn. Trong đó cùng với máy phát
điện, tín hiệu Morse đã ra đời tạo một bước ngoặc lớn cho lịch sử
truyền tin của con người.
Samuel Morse sinh năm 1791, mất năm
1872. Ông là một nghệ sĩ vẽ chân dung và là người sáng lập Hàn lâm viện
Nghệ Thuật Quốc Gia Hoa Kỳ năm 1825. Sau khi Edison phát minh ra máy
phát điện. Vào năm 1837, ông đã phát minh ra ám hiệu truyền tin dựa
trên đặc tính khi ta ngắt mở dòng điện sẽ gây nên tín hiệu (tích, te)
thể hiện trên cuộn giấy đang chạy. Ám hiệu này phổ biến năn 1844 và
được thay thế bằng biểu tín hiệu mang tên ông. Càng ngày tín hiệu Morse
càng phát triển và vào năm 1902 ông Maconi truyền tín hiệu Morse lần
đầu tiên là chữ “S” bằng vô tuyến điện qua Đại Tây Dương.
Ngày nay, sự phát triển nhanh chóng của
KHKT đã hiện đại hóa việc liên lạc. Bây giờ chúng ta có thể trò chuyện
thoải mái hàng giờ bằng hệ thống điện thoại. Cao hơn nữa trong những
năm của thập kỷ 90 với sự ra đời của World Wide Web, một người có thể
liên lạc cùng lúc với nhiều người khác nhau bằng hệ thống Internet toàn
cầu. Đến năm 1998, trên thế giới đã tuyên bố chấm dứt thời kỳ liên lạc
bằng Morse, mở ra thời kỳ liên lạc bằng kỹ thuật số.
|
Morse là một phương tiện truyền tin với những quy ước có sẵn, mang
tính quốc tế. Trong sinh hoạt thanh thiếu niên đây là một kỹ năng quan
trọng trong chương trình huấn luyện. nhờ nó mà khả năng nhạy bén, sự
tập trung, tinh thần tự giác được rèn luyện và phát huy cao độ. Ngoài
ra trong những trường hợp nguy cấp hay ở trại, morse lại đóng một vai
trò hết sức cần thiết. Chính vì vậy trong chương này tôi sẽ giới thiệu
cùng các bạn phương pháp truyền tin bằng MORSE.
BẢNG MORSE
A . _ I . . Q _ _ . _ Y _ . _ _ 7 _ _ . . .B _ . . . J . _ _ _ R . _ . Z _ _ . . 8 _ _ _ . . C _ . _ . K _ . _ S . . . 1 . _ _ _ _ 9 _ _ _ _ . D _ . . L . _ . . T _ 2 . . _ _ _ 0 _ _ _ _ _ E . M _ _ U . . _ 3 . . . _ _ F . . _ . N _ . V . . . _ 4 . . . . _ G _ _ . O _ _ _ W . _ _ 5 . . . . . H . . . . P . _ _ . X _ . . _ 6 _ . . . .
BẢNG ĐỐI BẢNG ĐẢO BẢNG PHẢN CÒN LẠI
E . T _ A . _ N _ . F . . _ . L . _ . . C _ . _ .I . . M _ _ U . . _ D _ . . Y _ . _ _ Q _ _ . _ J . _ _ _ S . . . O _ _ _ V . . . _ B _ . . . K _ . _ R . _ . Z _ _ . . H . . . . CH _ _ _ _ W . _ _ G _ _ . P . _ _ . X _ . . _
QUY LUẬT QUỐC TẾ
- GỌI: NW hoặc AAAA (ký hiệu này thường nhầm với việc tập họp trại nên khuyên dùng NW)- HẾT BẢN TIN: AR - KHẨN: DD - ĐỢI: AS - BỎ CHỮ: HH (đôi khi có thể thổi tốc độ nhanh liên tục nhiều lần một tín hiệu nào đó, nhiều khi không cần quy ước khi người nhận tin đã quen vơi ký hiệu đó). - NHẮC LẠI : IMI - ĐÃ HIỂU BẢN TIN : VE - SẴN SÀNG NHẬN TIN : K - NGƯNG : XX - KHÔNG CÓ NGHĨA : OS NẾU DÙNG ÁNH SÁNG - THÊM ÁNH SÁNG : LL - BỚT ÁNH SÁNG : PP - DÙNG ÁNH SÁNG ĐỎ : RR - DÙNG ÁNH SÁNG TRẮNG : BB - KIỂM TRA LẠI NGỌN LỬA : RF CÁC DẤU DÙNG TRONG LIÊN LẠC - CHẤM : AAA - PHẨY : MIM - GẠCH ĐẦU DÒNG : THT - PHÂN SỐ : DN - HỎI : IMI - NGOẶC ĐƠN : KK
DẤU HIỆU CẤP CỨU: SOS (SAVE OUR SOULS)
CHỈ DÙNG TRONG VIỆC KHẨN CẤP VÀ NHỮNG TRƯỜNG HỢP NGUY HIỂM. KHÔNG DÙNG
ĐỂ ĐÙA GIỠN. KHI THỔI TÍN HIỆU NÀY NÊN THỔI NHANH DỒN DẬP, ĐỀU.
Các phương pháp truyền tin:
- Dùng âm thanh: còi, tiếng gõ, nhạc cụ...
- Cờ: dang 2 tay= tè, 1 tay = tích - Khói: dùng cành cây tươi hay vải ướt che lại . tích : đếm 1-3 che lại. tè : 1-8 - Ánh sáng : dùng lửa , đèn pin , gương … nhịp điệu như khói. - Ngoài ra còn các phương pháp khác thì người phát tin và nhận tin quy ước với nhau. - Ngày xưa, các tù chính trị thường liên lạc với nhau bằng cách gõ lên vách tường của trại giam, với cách này thông tin được truyền đi khá nhanh, tuy nhiên phải có sự thống nhất cao của người phát tin và người nhận tin về các ký hiệu, điều này không có trong quy ước quốc tế chính vì vậy tuỳ vào hoàn cảnh và quy ước mà sử dụng. - Ở một số bộ lạc châu Mỹ họ cũng có nhiều cách truyền thống rất nhanh. Tất cả đều do kinh nghiệm và những quy ước sẵn của bộ lạc.
PHƯƠNG PHÁP HỌC:
Người học phải nắm vững bảng mẫu tự
Morse và các quy ước truyền tin . để học mẫu tự Morse có rất nhiều cách
tuỳ theo từng người mà có thể chọn các cách khác nhau như : tháp morse
, các mẫu tự đối , phản , đảo…
- Sau khi học bảng mosre thì bắt đầu
học nhận tin: cách nhận tin trước đây thường là theo lối chấm, gạch (
ngay cả những người đầu tiên cũng nhận bản tin theo lối này ). Tuy
nhiên khi nhận tin theo lối này sẽ làm cho tốc độ nhận tin giảm đi rất
nhiều vì phải qua 3 công đoạn nhận dưới dạng chấm gạch , viết lại chữ
rồi mới ghép bản tin, nhiều khi không chính xác . Vì vậy nên huấn luyện
đoàn sinh ngay từ đầu nhận theo lối thổi chữ nào viết chữ đó. Ví dụ:
thổi .- nhận ngay chữ A.
- Cần phải luyện tập thật từ từ, học
từng ít một , nắm vững chữ này rồi qua chữ khác, lưu ý các chữ khó nhớ,
dễ nhầm lẫn. trước đây khi học morse tôi chỉ học 5 chữ 1 tuần. chậm mà
chắc. Ngoài ra khi làm như vậy người học sẽ đỡ ngán hơn rất nhiều.
- Tập nhận các bản tin ngắn rồi nâng dần lên tới những bản tin dài cho quen khoảng 80 từ hay hơn (1 từ ít nhất 2 ký tự trở lên).
- Hãy tập luyện liên tục, kiên nhẫn bạn
sẽ thành công . một ngày chỉ cần 10 phút cho học morse bạn sẽ trở thành
một anh / chị thông tin liên lạc cừ khôi đấy !
Song song với nhận tin là kỹ thuật truyền tin: để
truyền tin bạn phải nắm rõ các mẫu tự, quy ước và phương pháp, tuỳ hoàn
cảnh mà sử dụng cho thích hợp. Thông thường khi dùng còi bạn dùng đầu
lưỡi bịt kín đầu còi, khi thổi nhả lưỡi ra theo từng nhịp. Nếu dùng đèn
pin thì dùng loại có nút chớp tắt thường có trong loại đèn bằng hợp
kim, tuy nhiên nếu như chỉ là một đèn pin bình thường chúng ta có thể
mở đèn rồi dùng 1 vật chắn sáng để điều khiển theo nhịp.
- Trước khi phát tin phải viết rõ bạch văn ra giấy rồi nhìn theo đó mà phát (nên viết dưới dạng quốc ngữ điện tín).
- Khi tập phát tin nên phát từ, đều, tập thật quen rồi phát nhanh dần. Không nên vội vàng. - Tập cho tới khi nào việc phát tin trở thành thói quen. - Nên thử nhiều phương pháp để có thể dùng trong cách trường hợp khác nhau.
Kết luận: tuy
morse là một môn “khó nuốt” nhưng biết cách học thì mọi chuyện sẽ rất
đơn giản. Nếu có lòng kiên nhẫn và sự quyết tâm thì tôi tin chắc rằng
bạn sẽ thành công.
|
Hiện nay, hệ thống bưu điện trên thế
giới không còn sử dụng tín hiệu Morse để truyền đi các bức điện tín
nữa. Bởi vì nó đã nhường chỗ cho những phương tiện hiện đại của công
nghệ thông tin như: Fax, Email… những kiểu truyền tin này đã phổ biến
rộng rãi trên khắp toàn cầu thông qua đường dẫn truyền Internet. Tuy
nhiên, trong trò chơi sinh hoạt tập thể của các đội nhóm hiện nay,
chúng ta vẫn còn sử dụng tín hiệu Morse (Moóc-xơ) như một công cụ để
phát triển trí tuệ, sự nhạy bén và phản xạ nhanh. Nhưng lớn hơn hết,
khi sử dụng tín hiệu Morse để giải mã, ta cũng trân trọng gìn giữ một
di sản qúy báu của nhân loại. Nhờ vào đó mà cả thế giới đã đi một bước
khá lớn trong công nghệ thông tin toàn cầu. Tín hiệu Morse được truyền
đi khắp thế giới được xem như một phát minh vĩ đại nhất của thế kỷ 19.
Trong một thời gian dài gần 2 thế kỷ, nó đã giúp cho biết bao nhiêu
người ở những vị trí khác nhau trên thế giới được gần lại, nhờ những
bức điện của những nhân viên bưu chính phát đi.
* Sơ lược lịch sử:
Người phát minh ra dạng truyền tin Morse là ông: Samuel Finley Brese Morse.Ông sinh ngày 27/4/1791, là một họa sĩ người Mỹ, đã từng sang Anh và Pháp để học hội họa. 1837: Ông được cấp bằng phát minh điện báo Morse. 1844: Bản tin Morse đầu tiên trên thế giới được phát đi từ Washington đến Baltimore (khoảng 60 km) với nội dung “Vinh danh những kỳ công của Thiên chúa”. 1872: Ông qua đời, thọ 81 tuổi. |
|
Mật thư và Semafore là một dạng thông
tin đặc biệt được truyền đi dưới dạng tín hiệu đã được quy ước giữa
người truyền và người nhận, thường được sử dụng trong hoạt động trại để
chơi trò chơi lớn, còn ngoài xã hội cũng được sử dụng nhiều ở lĩnh vực
thông tin bưu điện, quốc phòng, cấp cứu… Mật thư, Semafore giúp cho
chúng ta có điều kiện rèn luyện thêm tính suy luận, phán đoán, phản xạ
nhanh, tập trung ý chí, có trí nhớ lâu… Các bạn muốn giỏi về loại thông
tin hãy thực hành càng nhiều càng nhớ lâu. THÀNH CÔNG = NỖ LỰC + KIÊN
NHẪN Những nguyên tắc phải biết khi sử dụng : Ngôn ngữ điện tín : Muốn
biết và giải được, chúng ta cần phải thuộc những nguyên tắc sau đây,
những nguyên tắc này không thể nào thay đổi dù đó là dạng mật mã nào.
26 chữ cái : A B C D E F G H I J K L M N O P Q R S T U V W X Y Z
Quy ước dấu mũ : AA = Â OW = Ơ OUW = ƠƯ OO = Ô UW = ƯUOW = ƯƠ DD = ĐAW = Ă EE = Ê Qui ước dấu thanh : F = ø (huyền) R = û (hỏi)J = . (nặng) S = ù (sắc) X = õ (ngã) Lưu ý : các dấu thanh luôn luôn được viết vào liền cuối câu. Thí dụ : DDOOCJ - LAAPJ - TUWJ - DO Dịch là : ĐỘC - LẬP - TỰ - DO Cách thành lập mật thư và Semafore : Muốn thành lập một Mật thư hoặc đánh ra những tín hiệu thông tin về Semafore thì chúng ta phải hiểu được những quy định như sau : 1. Thành lập mật thư : Bất cứ loại mật thư nào cũng có 3 điều kiện như sau :
a.Bản văn gốc : là nội dung chính của bản tin, cần ngắn gọn, dễ nghe, dễ hiểu.
b.Bản mật mã :
Hình thức đây là một bản tin vô nghĩa (chưa giải) khi viết phải chính
xác, rõ ràng. c.Khoá : Đây là một phương tiện để giải mã không những
chính xác, rõ ràng mà còn phải hợp lý đúng như những gì đã quy ước
trước.
2. Các dạng mật thư :
Mật thư là hình thức của một lá thư bí mật, chính vì thế mà nó rất đa
dạng, có thể biến chuyển ra nhiều kiểu, nhiều cách, từ dạng thấp đến
cao, từ nguyên thể đến biến thể. Xin được giới thiệu một vài loại đơn
giản, dễ sử dụng, dễ nhớ, trong những lần sinh hoạt hoặc sử dụng để
chơi trò chơi lớn.
a.Mật thư xé ráp : Cách sử dụng : Viết lên giấy rồi cắt rời ra cho người chơi ráp lại, có thể viết theo ngôn ngữ điện tín.
b.Mật thư viết ngược : Cách
sử dụng : Lật ngược bản tin để đọc hoặc đọc từ dưới lên trên. c.Mật thư
chuồng : Cách sử dụng : Thay thế mẫu tự bằng những khung chuồng mẫu tự
nào nằm ở phía bên nào thì dấu chấm nằm ở phía bên đó. d.Mật thư số
thay chữ : Cách sử dụng : Dùng những con số để thay các mẫu tự dùng dấu
phẩy để tách số.
|
I. PHƯƠNG PHÁP "MÒ" TRONG MẬT THƯ:
Ngoài phương pháp giải mã theo chìa
khóa thông thường, những nguyên tắc về tiếng Việt sau đây có thể giúp
bạn đoán mò nội dung của bạch văn khi gặp hệ thống thay thế.
- Những phụ âm chỉ có thể đứng ở đầu từ: B, D, Đ, K, L, Q, S, V
- Những phụ âm có thể ở đầu hoặc ở cuối của từ: M, P, T
- Phụ âm có thể đứng ở đầu hoặc ở giữa của từ: R
- Những phụ âm có thể ở đầu, ở giữa, hoặc ở cuối của từ: C, G, H, N
- Những nguyên âm dài I, Y, E, Ê, O, Ơ, A, U, Ư có thể ở đầu, giữa, hoặc cuối của từ.
- Những nguyên âm ngắn Ă, Â không bao giờ ở cuối từ.
- Nếu B, D, Đ, H, L, M, R, S, V, X, Y, CH, GH, KH, NG, NGH, NH, PH, TH ở đầu của từ thì chắc chắn tiếp theo đó là nguyên âm.
- Nếu C, H, M, N, P, T, Y, CH, NG ở cuối của từ thì chắc chắn trước đó là nguyên âm.
- Dấu giọng luôn luôn đánh trên nguyên âm.
- Nếu G ở cuối của từ thì chắc chắn trước đó là N.
- Nếu H ở cuối của từ thì chắc chắn trước đó là C hoặc N.
- Nếu P ở đầu của từ thì chắc chắn sau nó là H.
- Nếu G là mẫu tự thứ hai của từ thì chắc chắn N là mẫu tự đầu của từ.
- Sau Q chắc chắn là U.
- Giữa U và E chắc chắn là Y,...
Để Mật thư được đơn giản hơn, ta chỉ
thay thế một số mẫu tự bằng ký hiệu, có sử dụng dấu giọng và có phân
cách các từ. Riêng các mẫu tự I, O, L nên dùng ký hiệu thay thế hoặc
chép thật rõ ràng để khỏi gây nhầm lẫn với số 1, 0 và số I La Mã.
Ví dụ:
Trước hết người soạn Mật thư phải đưa ra được những kết hợp giúp người giải có thể đoán ra một vài ký hiệu, thí dụ với từ đầu tiên của Mật thư trên đây và dấu hoa thị trước "R" là "T", từ đó suy ra hai từ đầu là "TRONG KHI"
Người giải thay thế toàn bộ các ký hiệu
vừa khám phá vào toàn bộ Mật thư (* = T, 5 = 0, + = N, ? = H). Đến từ
thứ 12: "* Á 3 ?" tất nhiên trở thành "TÁ3H". Ký hiệu 3 chỉ có thể là
"N" hoặc "C". Nhưng nếu đem "C" ráp thử vào từ thứ 5 ("CHỈ") và thứ 6
("CÓ") thì thấy rất phù hợp. Vậy 3 = C.
Bước đường còn lại không có gì là khó
khăn nữa. Bản dịch cuối cùng sẽ là: TRONG KHI SINH HOẠT CHỈ CÓ AI SẮP
CƠM MỚI ĐƯỢC TÁCH RỜI TẬP THỂ.
Một điểm cần lưu ý trong khi biên soạn
là tính chất gợi ý của từ. Từ này có thể khiến ta nghĩ đến từ kia, nhất
là trường hợp các từ ghép và cụm từ.
Thí dụ, sau khi giải được từ "TÁCH",
người đọc có thể nghĩ đến từ "RỜI", vì thấy tổ hợp 4%I là một từ gồm 3
mẫu từ mà mẫu tự cuối là "I" và có dấu huyền. Cũng thế, sau khi giải
được từ "HOẠT", người đọc dễ nghĩ ngay đến từ "SINH" vì "SINH HOẠT" là
một từ ghép có kết cấu vững chắc về nghĩa.
II. NGOÀI RA:
- Thường muốn dịch mò mật thư người
dịch nên nhìn vào cả BV...xem những con số hay chữ cái có mặt nhiều
trên BV... nằm ở những vị trí khác nhau càng tốt... VD: có 1 đoạn BV
sau: k,s,t,g,h - g,i,z -... ta thấy g đứng đầu được và đứng kế cuối
cũng được chỉ có thể là: n, hoặc c (các chữ cái khác tôi hư cấu... BV
này ko nên mò... hehe)... thực ra là khả năng tiên đoán nội dung... tùy
từng chủ đề TCL mà ta đoán phải làm gì... rồi mò theo... thế hay hơn....
- Quan sát xem có 2 chữ hay số đi liền
kề mà giống nhau không: nếu đứng đấu thì chắc chắn là 2 chữ D (như BV
thay thế mà mr Nguyen có ra hôm bữa...T4), nếu đứng giữa thì chỉ có thể
là 2 chữ O hoặc E...
- Tiếp theo, thường thì người ra MT ra
theo kiểu mẫu tự 26 (vì 29 dễ mò hơn)... ta sẽ đối phó trường hợp này
bằng cách tìm trong 1 từ nào mà có nhiều chữ cái, 5 hay 6 chữ cái càng
tốt và đoán nội dung của nó... sau đó thế ngược trở lại và giải BV...
những chữ có năm chữ cái thường là TRONG, HUONG, NGUOI... v.v... còn
những chữ 6: TRUONG, NGUYEN...v.v...
(trên đây là 1 vài kinh nghiêm trong mò
của minhduc... mong anh em tiếp tục post thêm kinh nghiệm của mình...
Dĩ nhiên đã nói là mò thì không bao giờ lý thuyết nó là đúng... chỉ xác
suất cao thôi... nên tôi chắc chắn mình viết có sơ suất...) |
Support Online
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét